Có rất nhiều vấn đề nảy sinh trong quá trình dạy trẻ, khi người lớn áp đặt nhận thức bản thân và nghĩ rằng trẻ em có thể học theo cách như chúng ta học. Điều này tất nhiên là đúng, nhưng mặt khác, trẻ có những sự khác biệt làm cho người lớn khó hiểu quá trình nhận thức của trẻ.
Kể từ thời của Jean-Jacques Rousseau, các nhà giáo dục đã nhận ra rằng trẻ em học khi thực hành và từ những sai lầm, chứ không ghi nhớ kiến thức qua lời nói. Nhiều nghiên cứu hiện đại đã chỉ ra rằng quá trình học tập của trẻ cần trải qua những giai đoạn tiến hóa tự nhiên và người lớn không thể thúc đẩy quá trình nhanh hơn được. Nhưng chúng ta lại có khả năng cao, và cũng là điều thường hay xảy ra, đó là bỏ lỡ giai đoạn “nhạy cảm” của trẻ khi trẻ có thể tiếp thu kiến thức mới một cách dễ dàng. Phức tạp hơn nữa là giai đoạn “nhạy cảm” đó không cố định vào độ tuổi của trẻ: giai đoạn “nhạy cảm” luôn được xác định dựa trên sự phát triển cá nhân từ khi trẻ sinh ra.
Ví dụ minh họa sự tồn tại của một số giai đoạn học tập nhất định và vai trò của cha mẹ đó là khi trẻ tập đi. Phụ huynh có thể làm khuôn mẫu cho trẻ, nhưng chỉ có trẻ em tự xác định khi nào trẻ sẵn sàng tập đi và bước những bước đầu tiên. Chúng ta không thể dạy trẻ cách đi được, đó là điều vô nghĩa và nực cười. Ngược lại, người lớn có thể cho trẻ những điều kiện khác nhau giúp trẻ tập đi: cho trẻ giữ tay, đồ vật để trẻ cầm khi tập đi. Ngoài ra, người lớn đương nhiên là có thể khuyến khích và vui mừng trước mỗi bước tiến mới của trẻ.
Trẻ học những thứ khác cũng tương tự như vậy. Chúng ta không thể “nhồi nhét” quá trình đọc vào đầu trẻ, nhưng lại có thể dành thời gian để đọc sách cho trẻ và cho trẻ tiếp xúc với những quyển sách hợp lứa tuổi.
Trẻ học từng phút từng giây trong ngày. Chúng học cách để trở thành người lớn. Hình thức dạy trẻ - theo cách chơi. Có những thành phần thiết yếu và dễ phân biệt trong trò chơi dành cho trẻ:
- Quan sát
- Bắt chước
- Nghiên cứu
- Thí nghiệm
- Lặp lại
Biết được những thứ này, người lớn có thể giúp trẻ học: họ cho trẻ xem điều già đó (quan sát), khuyến khích trẻ cố gắng làm (bắt chước, nghiên cứu), tạo không gian cho trẻ thử nghiệm và khuyến khích trẻ lặp lại hành động nhiều lần.
Trẻ em học bằng cách thực hành và học từ những sai lầm. Việc ghi nhớ lý thuyết đối với đứa trẻ dưới 5 tuổi là hoàn toàn không thể. Trẻ em hiểu thế giới trong hiện thân vật chất cụ thể của nó, chúng suy nghĩ một cách khách quan và để đồng hóa thông tin, chúng phải cảm nhận nó bằng tất cả các giác quan của mình.
Trẻ có thể làm những điều mà người lớn gọi là “sai lầm” khi chơi. Rất tiếc là hầu hết các bậc cha mẹ thường nghĩ rằng phạm sai lầm là điều thất bại trong nhân cách của người mắc lỗi. Đồng thời, chúng ta quên rằng chúng ta sẽ không bao giờ học được cách đi, nếu chúng ta bị sỉ nhục và chế nhạo khi chúng ta mới học những bước đi đầu tiên. Mỗi lần phụ huynh đánh giá gay gắt sai lầm của trẻ là mỗi lần trẻ lại lớn hơn. Và nếu chúng ta muốn dạy con thành công thì cần nhớ một chân lý đơn giản: mọi sai lầm đều ẩn chứa những bài học.
Nhiều bậc cha mẹ sợ rằng con cái họ có thể trở nên dốt nát và lười biếng. Nhưng nếu quay lại ví dụ trên thì có thể nhận thấy rằng tất cả trẻ em đều học cách đi. Trẻ em đều có mong muốn phát trển bẩm sinh và đạt sự thành công trong hành động của mình. Chúng không nhìn thấy chướng ngại và chỉ tiến đến mục tiêu. Nỗi sợ thất bại đều do người lớn áp đặt và giết chết ước mơ của trẻ. Nếu chúng ta tin tưởng mong muốn học hỏi và thành đạt của trẻ, chúng ta sẽ cho trẻ mắc sai lầm cần thiết để trẻ có thể học hỏi. Chúng ta không thể mang nỗi buồn thay cho trẻ, nhưng ngược lại có thể nhạy cảm với những nhu cầu của trẻ, làm gương cho trẻ, cho trẻ những cơ hội cần thiết, đảm bảo an toàn cho trẻ (trong giới hạn hợp lý), khuyến khích trẻ và vui mừng với thành tựu của trẻ.
Sự khác biệt giữa quá trình học tập của người lớn và trẻ em nằm ở chỗ, người lớn luôn muốn nhìn thấy kết quả hành động của mình. Trong khi đối với trẻ em, học tập là một quá trình cảm nhận. Điều này cần được hiểu nếu chúng ta muốn đứa trẻ thành công trong hành động ban đầu của trẻ. Nếu phụ huynh lo lắng về thành quả của trẻ, trẻ sẽ ngừng cố gắng ngay lập tức. Rõ ràng một đứa trẻ mới biết đi sẽ không thể làm điều gì đó tốt như người lớn. Điều trẻ cần làm không phải tạo ra thành quả tốt mà là học hỏi và phát triển khả năng của mình.
Trẻ em sống trong giây phút hiện tại, chúng hoàn toàn bị cuốn hút vào những gì đang xảy ra ở đây và bây giờ. Trẻ nỗ lực rất nhiều để học những kỹ năng mới. Vì lý do này, “thử nghiệm” cần được coi là kết quả hành động của trẻ. Nếu một đứa trẻ cố gắng viết tên của mình một cách vụng về, bạn cần chú ý và đánh giá cao những gì chúng đang cố gắng làm, chứ không phải kết quả của dòng chữ theo quan điểm phê bình của người lớn là đẹp hay không đẹp.
Một đặc điểm khác liên quan đến thời gian đó là trẻ không thể hiểu được nếu bạn bắt đầu thúc giục trẻ vội vàng làm gì đó. Nếu bạn làm hoạt động nào đó cùng trẻ thì hãy ở bên trẻ và sống trong giây phút hiện tại. Chúng không hiểu các từ “tí nữa”, “ngày mai”, “lúc khác”. Đối với chúng, từ chối làm cái gì đó hiện tại tức là từ chối tổng thể, vì đối với trẻ, thời điểm hiện tại có giá trị tuyệt đối.
Việc dạy dỗ trẻ em trong thế giới hiện đại tập trung chủ yếu vào việc phát triển nhữung khả năng của “não trái”. Kết quả là trẻ giỏi đọc, đếm, đưa ra những kết luận logic, nhưng chúng có thể hoàn toàn không có khả năng đưa ra ý tưởng và tìm những giải pháp sáng tạo. Phương pháp giảng dạy này đã được phát triển trong nhiều thế kỷ nhằm cải thiện hệ thống trường học giáo dục trẻ em. Nhưng tình hình hiện tại đã thay đổi. Giờ đây, trên toàn thế giới cần những người có khả năng đưa ra quyết định độc đáo và khả năng tư duy sáng tạo. Điều này cho thấy rằng giáo dục “não phải” cần có cùng một vị trí với “não trái” trong sự phát triển của một đứa trẻ.
Các nghiên cứu về não đã cho rằng bán cầu não trái và phải của con người có chức năng khác nhau. Não trái có chức năng ngôn ngữ, chịu trách nhiệm cho việc phân tích logic, trong khi bán cầu não phải chủ yếu chịu trách nhiệm về khả năng không gian, nhận diện ngôn ngữ cơ thể, hình ảnh, và cảm thụ âm nhạc. Nói một cách đại khái, ví dụ, nếu bạn sáng tác bài hát thì “não trái” chịu trách nhiệm cho lời bài hát, còn “não phải” là cho giai điệu.
Tính sáng tạo gần như là không thể dạy khi trưởng thành. Còn một đứa trẻ nhỏ có tất cả tiềm năng cho sự phát triển cả 2 chức năng phân tích và sáng tạo của não bộ. Kết luận: kiến thức về não bộ có thể áp dụng và tạo thời khóa biểu cân bằng hàng ngày với trẻ.
Và trẻ em nên có cơ hội ngang nhau để sáng tạo và khám phá.