RG#24. Những chiếc "container" chứa đầy thương tích
Thật không công bằng khi người bạn yêu lại làm tổn thương bạn.
Freud chắc chắn là một thiên tài. Ở thời đại của mình, ông đã có thể đưa ra những phân tích về những trải nghiệm trong thời thơ ấu sẽ ảnh hưởng tới toàn bộ cuộc sống như thế nào, sẽ vô thức ảnh hưởng tới thói quen hàng ngày của chúng ta ra sao.
Ngày nay, chúng ta đã biết và thừa nhận sự ảnh hưởng của thời thơ ấu đến sự phát triển của não bộ. Những gì trẻ trải nghiệm trong những năm đầu đời cũng là lúc bộ não phát triển mạnh mẽ nhất và thực sự có những tác động quyết định tới việc hình thành nhân cách một con người.
Nhân cách của chúng ta phát triển thông qua việc sao chép từ môi trường, thông qua cách mà người chúng ta gắn bó khi còn nhỏ phản ứng với thế giới, thông qua việc “Sao con dốt thế, tay không phải để làm như vậy”, “Con là đồ lười biếng, nhanh cái tay cái chân lên”, hay tệ hơn “Mày cũng khốn nạn giống hệt con mẹ/thằng bố mày”.
Bộ não học hỏi một cách tự động, các ma trận của tư duy phản biện sẽ phát triển về sau này khi thuỳ trán trưởng thành nhưng ở lứa tuổi nhỏ, mọi thứ đều được nhìn nhận mà không qua một bộ lọc nào cả. “Con chẳng làm được việc gì ra hồn” và “Hãy nhìn xem con đã làm gì đây”… bộ não sẽ nhanh chóng học được rằng nó là người vô ích, vô dụng rồi từ đó làm giảm sự tự tin và lòng tự trọng ở một đứa trẻ. Não sẽ tự động sắp xếp kiến thức về thế giới và về bản thân mà đứa trẻ nhận được từ người nó đã hình thành mối quan hệ và kết nối – mẹ, cha, người chăm sóc trực tiếp.
Một dự đoán nổi tiếng khác của Freud là về sự vô thức, cũng đã được thừa nhận. Những năm 1970, nhà tâm lý học người Mỹ Benjamin Libet đã tiến hành các thí nghiệm nổi tiếng của mình về ý chí tự do, về chuyện liệu có vô thức hay không… Thí nghiệm cho thấy sự sẵn sàng hành động không xảy ra như một hệ quả của việc quyết định mà trái lại – ý thức của chúng ta chỉ quan sát và tất cả những gì nó có thể làm, dường như lại là phủ quyết.
Vậy thì ai đưa ra quyết định? Bộ não? Và thuật toán mà nó thực hiện là gì? Chúng kích hoạt các mẫu hành vi được sử dụng phổ biến nhất – bao gồm cả những mẫu đã được hình thành trong môi trường thời thơ ấu. Đây cũng là cách mà theo thời gian, các đặc điểm tính cách biến thành bệnh lý – giống như con đường mà chúng ta thường lái xe qua trở thành đường mòn mà từ đó người ta không thể thoát ra hay quay đầu được nữa.
Tại sao lại rất khó để ngăn cản hay làm chậm lại những hành động vô thức đó? Hãy tưởng tượng nó giống như hòn đá lăn xuống núi: lúc ở đầu đoạn dốc thì vẫn còn có thể dừng lại, nhưng nếu đi xa hơn thì việc dừng lại mà không có phanh chỉ là điều viển vông. Để ngăn chặn nó, phải thật sự có một lực rất mạnh. Và kể cả có phanh, thì năng lượng để phanh hoạt động cũng phải được tính toán để đặt ở đâu đó.
Ví dụ thêm nhé. Bạn đang đi trên xe buýt về nhà, kết thúc một ngày làm việc, đám đông, ồn ào, mệt mỏi, khách hàng thì hành hạ cả ngày, sếp thì đòi hỏi trách móc và một người hành khách đứng cạnh đẩy bạn “Đứng tránh ra một chút đi, chật quá”. Phản ứng tự động lúc ấy là tức giận, hòn đá không còn ở trên đầu dốc nữa mà đã lăn xuống dốc mất rồi. Bạn đã kích hoạt nó và cũng không có khả năng phanh nó.
Ngay từ giây phút đầu tiên xuất hiện trên thế giới này, con người chúng ta đã phải làm điều gì đó với năng lượng được giải phóng khi mong muốn (hoặc không mong muốn) của chúng ta va chạm với thực tế. Một đứa trẻ sơ sinh đói thì sẽ khóc. Nhưng khi lớn lên, nó có thể biết trì hoãn tiếng khóc. Theo thời gian, con cũng học được việc chịu đựng và trì hoãn cho tới thời điểm thích hợp – khi đói, buồn đi vệ sinh, ham muốn tình dục… Đó cũng chính là những gì mà Freud đã viết, nói về giai đoạn phát triển của miệng, hậu môn, bộ phận sinh dục – nơi chứa những ham muốn trong cơ thể mà một người học cách ức chế.
Vậy năng lượng sẽ đi đâu khi chúng ta phanh lại, hay nói cách khác là tự ức chế?
Freud từng đưa ra một khái niệm về “vật chứa” (container) vô thức, với chức năng là để lưu trữ năng lượng từ sự ức chế của những ham muốn chưa được thực hiện. Với trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, sự thôi thúc nó thể hiện ngay lập tức trong hành vi, chúng không tự ức chế được khi còn quá nhỏ và không tự chứa được năng lượng như người lớn. (Chúng có cả một đời để rèn luyện. Chỉ có điều sự rèn luyện của mỗi người là khác nhau.) Nhưng trẻ vẫn có thể hình thành một nơi chứa lành mạnh bằng cách có sự hỗ trợ và kết nối của người mẹ/cha hoặc người chăm sóc gần gũi nhất.
Một người lớn gần gũi với trẻ chính là container của đứa trẻ, là container bên ngoài khi mà vật chứa bên trong của trẻ còn chưa thể hình thành. Đó cũng là cách giúp trẻ hình thành container cho riêng mình một cách lành mạnh. Con có thể bật khóc vì một vết xước rất nhỏ và chạy đến ôm lấy cha mẹ – để nhờ mẹ chứa những trải nghiệm quan trọng của mình vào chiếc hộp chứa của mẹ đó. Con không thể tự đứng dậy và vượt qua được như người lớn, vậy nên đừng phản hồi với con bằng cách nói “Sao con khóc lóc như con nít vậy, lớn rồi mà hơi tí đau là cũng khóc”. Hoặc tệ hơn “Nín ngay, ngã có chút xíu mà cũng khóc lóc, con trai mà thế à?”. Sự phản ứng đó cho thấy rằng người lớn đang không coi trọng những trải nghiệm của trẻ.
Thực tế là nhiều người lớn không chấp nhận khi một đứa trẻ muốn mình là container của chúng. Không đáp ứng các nhu cầu, áp đặt, ép trẻ phải chịu đựng, không được phép khóc, không được phép tức giận. Trẻ có vượt qua được không, có chứ. Nhưng sự tức giận và những cơn đau ấy sẽ đóng băng. Đóng băng chứ không phải là tan biến đi. Và như một cái ly, nước đầy thì sẽ tràn. Khi mọi thứ không thể kìm nén thêm được nữa, nó giống như một người ôm bom cảm tử vừa chạy vừa hét “Chết hết đi” ấy.
Ở một số đất nước, việc tách con cái ra khỏi cha mẹ từ sớm là một phần bình thường của chính sách nuôi dạy. Phụ nữ phải đi làm từ khi con 3 tháng, 6 tháng tuổi và gửi con mình đi trẻ hoặc người thân khác. Những đứa trẻ, từ rất sớm đã không được gần gũi mẹ. Một hệ thống như thế không chỉ làm tê liệt đứa trẻ mà là cả cha mẹ, giết chết sự gắn bó sinh học với con cái. Cha mẹ không ở gần, container bị đóng lại và đứa trẻ phải đặt tất cả những ức chế của nó vào một nơi nào đó – hoặc là ủ như virus trước khi phát bệnh, hoặc là đóng băng rồi chờ tới một ngày lại trào dâng sục sôi.
Những đứa trẻ với những container đầy tổn thương cũng lại tiếp tục làm như vậy khi chúng trở thành cha mẹ.
Có thể khi đọc tới đây các bạn đang tự hỏi rằng, vậy thì nên làm thế nào? Tôi vẫn phải đi làm và gửi con đi trẻ hoặc cho người khác trông nom. Tôi phải phạt con thật nặng nếu không nó không chịu nghe lời. Tôi đi làm đã quá căng thẳng rồi và không thể bình tĩnh với con thêm được nữa… Nó không phải là chuyện được giải quyết ngay bây giờ và những gì mình viết cũng không phải để giải quyết điều đó. Nó cần thời gian.
Nhưng vẫn luôn có cách nếu bạn thực sự chú tâm và muốn làm. Chẳng hạn như yêu thương con cái mình đúng cách hơn, bất chấp những tiếng nói xấu xa từ một tuổi thơ đau thương vẫn cứ dội về hay những lời bình luận vô căn cứ từ bên ngoài kiểu như “Đừng có bế bồng ôm ấp nữa rồi nó sinh hư”. Hay là “nó lớn rồi, có phải bé bỏng gì nữa đâu”, hoặc là “Phải đánh đi, cho nó nhớ mà đừng tái phạm”…
Người ta thường nói thế giới này không có công lý thật sự. Đúng, nhưng tình yêu thì luôn tồn tại trên đời. Và tình yêu có lẽ cũng là một trong những sụ bất công lớn nhất.
Thật không công bằng khi người bạn yêu lại làm tổn thương bạn. Thật không công bằng khi làm điều tốt mà không có được sự công nhận, nhưng vẫn cứ phải tiếp tục làm. Thật không công bằng khi phải trao đi cho người khác trong khi chính bản thân mình còn đang thiếu thốn.
Nhưng mong rằng chúng ta, những người làm cha mẹ, sẽ luôn tìm thấy sức mạnh và năng lượng cho những điều bất công như vậy, ở chính mình và cả những người mà bạn yêu thương. Đặc biệt, là ở những đứa trẻ.