#86. Làm sao để trẻ ngủ ngoan: 2 trường phái đối lập
Cứ để con khóc rồi tự ngủ hay nỗ lực dỗ dành, ru con vào giấc?
Nói về chuyện ngủ của trẻ, luôn có 2 trường phái ý kiến khác nhau:
+ Một là: hãy cứ để trẻ khóc rồi tự ngủ
+ Hai là: nên dỗ dành và ru cho đến khi trẻ chìm vào giấc ngủ.
Quan điểm nào cũng được bảo vệ bằng những lời giải thích về hạnh phúc, sức khỏe và những giá trị gia đình phù hợp. Và quan điểm nào cũng có những hệ quả đi kèm, tất nhiên là khác nhau.
Bắt đầu vào cuối những năm 1800, đầu những năm 1900, khi các bác sĩ sản khoa và nhi khoa xuất bản sách của mình về chủ đề giấc ngủ của trẻ, một loạt các chuyên gia y tế, các nhà vận động học, nhà tâm lý học và các nhà nghiên cứu về giấc ngủ đã đưa ra rất nhiều lời khuyên. Họ cho rằng người lớn không nên bế ẵm trẻ quá nhiều. Khi bế thì nên thường xuyên đổi bên, nhớ cho trẻ ăn, giữ ấm, và nên để bé một mình.
Tuy nhiên, cũng đã có rất nhiều chuyên gia phản đối phương pháp nuôi dạy cứng nhắc trên và khuyên cha mẹ nên mềm mỏng, dịu dàng hơn với trẻ. Đó cũng là lý do chúng ta vẫn thấy nhiều em bé được đung đưa vỗ về như ngày nay.
Trong bài viết này, hãy cùng tìm hiểu 3 nhà nghiên cứu nổi tiếng và cũng là 3 tác giả của những cuốn sách bán chạy nhất trong lịch sử có liên quan tới chủ đề nuôi dưỡng trẻ, đặc biệt là các quan điểm xoay quanh vấn đề NGỦ.
Benjamin Spock: phản đối nuôi dạy con theo lịch trình, không đi theo triết lý “one-size-fits-all”
Vào năm 1946, Tiến sĩ Benjamin Spock đã có một quan điểm gây xôn xao. Ông khuyên các bậc cha mẹ nên lắng nghe bản năng của họ trong việc nuôi dạy con.
So với tất cả những người đi trước, Benjamin rất thoải mái khi nêu lên quan điểm cha mẹ hãy xem những em bé của mình như một cá thể trưởng thành. Chỉ nhờ quan điểm này mà The common sense Book of Baby and Child Care đã bán được hơn 50 triệu bản trên toàn thế giới (tính tới năm 1998), dịch ra 42 ngôn ngữ và trở thành cuốn sách bán chạy thứ 2 chỉ sau Kinh thánh, theo New York Times. Cuốn sách gửi tới một thông điệp cho các bà mẹ là “Bạn biết nhiều hơn bạn nghĩ” và Benjamin là người ủng hộ ý tưởng về việc nuôi dạy con cái mà tại thời điểm đó được coi là không chính thống.
Năm 1928, John B.Watson, một trong những người sáng lập về tâm lý học hành vi đã lập luận rằng trẻ em cần được đối xử như người lớn. Theo đó, những em bé cần học cách ngủ theo lịch trình thường xuyên và việc bế chúng lên, hay bế chúng bất cứ khi nào chúng khóc sẽ chỉ dạy cách chúng khóc nhiều hơn và không ngủ suốt đêm (một khái niệm vay mượn từ chủ nghĩa hành vi). Trong cuốn sách năm 1930 của mình, ông viết: “Không bao giờ, đừng bao giờ ôm và hôn trẻ, không bao giờ để chúng ngồi trong lòng bạn. Nếu phải làm gì, hãy chỉ hôn lên trán con khi nói chúc con ngủ ngon và bắt tay con vào buổi sáng”.
Họ được hướng dẫn cho con ăn theo lịch trình nghiêm ngặt, không nên ôm ấp, hôn hít vì điều này có thể sẽ không giúp con trở thành những cá thể mạnh mẽ và độc lập trong một thế giới khắc nghiệt.
Ngược lại, Benjamin ủng hộ một cách tiếp cận hoàn toàn khác. Ông khuyến khích các bậc cha mẹ xem con cái họ như những cá thể khác biệt và không áp dụng triết lý “one-size-fits-all” (một công thức phù hợp cho tất cả) lên chúng. Ông tin rằng, trẻ đến với thế giới với những nhu cầu, sở thích và khả năng riêng biệt. Cốt lõi của việc nuôi dạy con tốt là chú ý đến những nhu cầu của trẻ ở mỗi giai đoạn phát triển. Cha mẹ cần tin tưởng vào bản thân, bởi rút cục thì những đứa trẻ đã được sinh ra và nuôi dạy từ cách đây hàng ngàn năm. Ông nhấn mạnh việc nuôi dạy con cái như một hành trình khám phá và những sai lầm chính là cơ hội học tập, tiến bộ.
Benjamin McLane Spock là một bác sĩ nhi khoa người Mỹ, tác giả cuốn sách Baby and Child Care bán chạy nhất trong lịch sử. Benjamin là bác sĩ nhi khoa đầu tiên nghiên cứu phân tâm học để cố gắng hiểu nhu cầu của trẻ em và sự đáp ứng của gia đình. Những ý tưởng của ông về chăm sóc trẻ đã ảnh hưởng nhiều tới các thế hệ cha mẹ và giúp họ tình cảm hơn với con cái, cũng như tôn trọng sự độc lập và riêng tư của con. Tuy nhiên, một số lý thuyết của ông cũng bị đồng nghiệp chỉ trích vì phụ thuộc nhiều vào các bằng chứng mang tính giai thoại hơn là nghiên cứu học thuật chuyên sâu. Benjamin là một nhà hoạt động trong phong trào New Left và chống chiến tranh Việt Nam những năm 1960-1970. Vào thời điểm đó, các cuốn sách của ông đã bị chỉ trích vì tuyên truyền cho sự cho phép và tôn trọng của việc tự đưa ra quyết định ở trẻ đã khiến cho những người trẻ tuổi cũng đi theo phong trào này. Ông đã phủ nhận điều đó, phiên bản của Baby and Child Care năm 1968 đã chỉ bán được 1/2 so với phiên bản trước.
Richard Ferber: hãy để trẻ khóc và không cho trẻ ăn đêm
Cuốn Solve Your Child’s Sleep Problems của Dr. Richard Ferber, được xuất bản lần đầu vào năm 1985 và sửa đổi lần cuối vào năm 2006, vẫn là một trong những cuốn sách bán chạy nhất trong danh mục trẻ sơ sinh và trẻ tập đi của Amazon.
Trong cuốn sách này, Richard Ferber đã đưa ra một loạt các tình huống mà ông đã nghiên cứu trực tiếp trong phòng thí nghiệm. Ông chứng minh, những ông bố bà mẹ không để cho con mình khóc đã vô tình khiến trẻ không thể tự học cách ngủ tự nhiên. Hay hành động khi cha mẹ đung đưa nôi để ru con ngủ khi bé bị rơi núm vú giả khỏi miệng cũng đều không đem đến hiệu quả. Theo Ferber, cha mẹ cần để trẻ khóc một cách tự nhiên để tránh tình trạng trẻ đột ngột thức giấc và khóc về đêm, dù việc này có mất nhiều thời gian. Không chỉ có vậy, ông cũng chỉ ra rằng cho trẻ ăn ban đêm thay vì có lợi thì lại khiến trẻ dễ tỉnh giấc, dễ cáu kỉnh và có thể bị chậm phát triển. Ông khuyên cha mẹ nên cố lờ đi cơn đói của trẻ trong đêm thay vì cố cho trẻ ăn và chứng kiến những hậu quả khôn lường có thể xảy ra.
Richard Ferber là bác sĩ và cũng là Giám đốc Trung tâm về Rối loạn giấc ngủ tại Bệnh viện Nhi đồng Boston. Ông đã nghiên cứu về giấc ngủ và rối loạn giấc ngủ ở trẻ trong hơn 30 năm. Ông nổi tiếng bởi phương pháp gọi là Ferberization (Ferber Method), dạy trẻ học cách tự ngủ, cách tự làm dịu bằng cách cho phép trẻ khóc trong một khoảng thời gian nhất định trước khi nhận được sự thoải mái và hỗ trợ từ cha mẹ.
Cũng bắt đầu với cách tiếp cận “Cry It Out” (cách tiếp cận được đưa ra đầu tiên bởi Tiến sĩ Emmett Holt năm 1894), nhưng Ferber không chủ trương chỉ đơn giản là để một đứa trẻ khóc. Ông phác thảo một loạt cách thực hành để dạy trẻ sơ sinh ngủ, đó là:
Thực hiện các bước để chuẩn bị cho bé ngủ (các thói quen ban đêm, các hoạt động ban ngày)
Đến giờ ngủ, để trẻ nằm trên giường và rời khỏi phòng. Quay trở lại với khoảng thời gian tăng dần để an ủi em bé (mà không bế bé lên). Ví dụ, đêm đầu tiên, khi bé khóc thì sẽ chờ 3 phút mới quay lại, sau đó là 5 phút, sau đó là 10 phút… cứ thế cho tới khi bé ngủ say. Các đêm tiếp theo, quay lại với bé trong khoảng thời gian dài hơn đêm trước. Kỹ thuật này áp dụng đối với bé sơ sinh từ 4 tháng tuổi trở lên.
Trước 6 tháng tuổi, em bé có thể vẫn cần ăn vào ban đêm.
Trong lần tái bản năm 2006, Ferber đã có một số sửa đổi quan trọng trong cuốn sách của mình, cụ thể là ông cởi mở hơn với việc để trẻ ngủ chung và cho rằng cách tiếp cận sẽ có hiệu quả khác nhau với mỗi gia đình, trẻ em hoặc trong các hoàn cảnh khác nhau.
Lần đầu tiên mình đọc cuốn sách của Ferber là khi con trai lớn được 4 tháng tuổi (khi đó mình chưa đi học về tâm lý học trẻ nhỏ và gentle parenting) và con bắt đầu tự ngủ trên giường nhỏ kê liền giường bố mẹ vào ban đêm. Việc để con khóc mà không quan tâm con là quá khó với mình. Và ngay cả khi Ferber đúng thì mình cũng vẫn sẽ không từ bỏ thói quen cho con ăn về đêm.
Và thực tế là cũng có những cuốn sách khác, phản biện quan điểm không cho ăn đêm của Ferber, để cho bạn thấy dù bạn có lựa chọn cho bé ăn đêm (giống mình) thì nó cũng không có gì là sai, và con sẽ chẳng gặp phải vấn đề gì khi mình áp dụng những phương pháp đó.
William Sears: trẻ sẽ sẵn sàng ngủ một mình khi chúng có thể và tầm quan trọng của “nuôi dạy con vào ban đêm”
Nếu Ferber là đại diện cho cách nuôi con “cứng nhắc” thì bác sĩ/tiến sĩ William Sears lại ở phe đối lập. Sears cho rằng cha mẹ nên dỗ dành và an ủi khi con khóc. Điều này sẽ khiến trẻ tin tưởng thế giới và có cảm giác an toàn, sẵn sàng ngủ một mình khi cần. Cách tiếp cận với giấc ngủ của Sears, cái mà ông gọi là “nuôi dạy con vào ban đêm” ủng hộ việc tạo một môi trường an toàn cho giấc ngủ của trẻ.